Vương Bột

Vương Bột 王勃 (649-675) tự Tử An 子安, người đất Long Môn. Sáu tuổi đã biết làm văn. Mười sáu, mười bảy tuổi nổi danh hạ bút nên vần.  Vương có thói quen, mỗi khi làm văn, mài mực sửa soạn nghiên bút rồi nằm đắp chăn ngủ. Khi tỉnh dậy, cầm ngay bút viết. Vương nổi tiếng là một thi sĩ cao danh thời Sơ Đường (618-713).  Khoảng 675-676, lúc 27-28 tuổi, Vương Bột bị đắm thuyền, chết đuối ở biển Nam Hải trên đường sang Giao Chỉ thăm cha.

Tống Đỗ thiếu phủ chi nhậm Thục châu - Vương Bột

Tiễn Đỗ thiếu phủ đi nhậm chức ở Thục châu

Bản dịch nghĩa

Thành khuyết phụ Tam Tần,

Phong yên vọng Ngũ tân.

Dữ quân ly biệt ý,

Ðồng thị hoạn du nhân.

Hải nội tồn tri kỷ,

Thiên nhai nhược tỉ lân.

Vô vi tại kỳ lộ,

Nhi nữ cộng triêm cân.

Kinh thành được Tam Tần bao quanh bảo vệ,

Vọng qua khói gió thấy năm bến sông Thục.

Cùng cảm thông với bạn nỗi biệt ly

Đều là những kẻ làm quan xa quê nhà

Trong bốn biển vẫn có người tri kỷ,

(Dù ở ven trời góc biển vẫn xem như bên cạnh.

Hai ta xin đừng đứng ở ngã rẽ đường,

Khóc lóc như tuồng nhi nữ.


Đằng Vương Các - Vương Bột

Bản dịch nghĩa

Đằng Vương cao các lâm giang chử,

Bội ngọc minh loan bãi ca vũ.

Hoạ đống triêu phi Nam phố vân,

Châu liêm mộ quyển Tây Sơn vũ.

Nhàn vân đàm ảnh nhật du du,

Vật hoán tinh di kỷ độ thu.

Các trung đế tử kim hà tại,

Hạm ngoại Trường Giang không tự lưu.


Gác Đằng Vương cao ngất dựa bên bãi sông,

Đeo ngọc reo chuông thôi múa hát.

Cột vẽ mây bến Nam bay lúc sáng sớm,

Rèm châu cuốn buổi chiều thấy mưa núi Tây.

Mây lững lờ ngày ngày vẫn in bóng trên đầm,

Vật đổi sao dời trải đã bao thu.

Con vua ở trong gác nay ở chốn nào?

Ngoài hiên sông Trường Giang cứ chảy mãi.


(bài thơ đăng ở cuối bài phú Đằng Vương Các Tự. )

Đằng Vương Các T- Vương Bột

Bài từ về gác Đằng Vương


Nam Xương cố quận, Hồng Đô tân phủ.

Tinh phân Dực Chẩn, địa tiếp Hành Lư.

Khâm tam giang nhi đới ngũ hồ, khống Man Kinh nhi dẫn Âu Việt.

Vật hoa thiên bảo, long quang xạ Ngưu Đẩu chi khư;

Nhân kiệt địa linh, Từ Trĩ hạ Trần Phồn chi tháp.

Hùng châu vụ liệt, tuấn thái tinh trì,

Đài hoàng chẩm Di Hạ chi giao, tân chủ tận đông nam chi mỹ.

Đô đốc Diêm công chi nhã vọng, khể kích dao lâm;

Vũ Văn tân châu chi ý phạm, xiêm duy tạm trú.

Thập tuần hưu hạ, thắng hữu như vân;

Thiên lý phùng nghinh, cao bằng mãn toạ.

Đằng giao khởi phụng, Mạnh học sĩ chi từ tông;

Tử điện thanh sương, Vương tướng quân chi võ khố.

Gia quân tác tể, lộ xuất danh khu;

Đồng tử hà tri, cung phùng thắng tiễn.


Thời duy cửu nguyệt, tự thuộc tam thu.

Lạo thuỷ tận nhi hàn đàm thanh, yên quang ngưng nhi mộ sơn tử.

Nghiễm tham phi ư thượng lộ, phỏng phong cảnh vu sùng a.

Lâm đế tử chi Trường Châu, đắc tiên nhân chi cựu quán.

Tằng đài tủng thuý, thượng xuất trùng tiêu;

Phi các lưu đan, hạ lâm vô địa.

Hạc đinh phù chử, cùng đảo tự chi oanh hồi;

Quế điện lan cung, liệt cương loan chi thể thế.

Phi tú thát, phủ điêu manh,

Sơn nguyên khoáng kỳ doanh thị, xuyên trạch hu kỳ hãi chúc.

Lư diêm phác địa, chung minh đỉnh thực chi gia;

Khả hạm mê tân, thanh tước hoàng long chi trục.

Hồng tiêu vũ tễ, thái triệt vân cù.

Lạc hà dữ cô vụ tề phi, thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc.

Ngư chu xướng vãn, hưởng cùng Bành Lễ chi tân;

Nhạn trận kinh hàn, thanh đoạn Hành Dương chi phố.


Dao khâm phủ sướng, dật hứng thuyên phi.

Sảng lại phát nhi thanh phong sinh, tiêm ca ngưng nhi bạch vân át.

Kỳ Viên lục trúc, khí lăng Bành Trạch chi tôn;

Nghiệp thuỷ châu hoa, quang chiếu Lâm Xuyên chi bút.

Tứ mỹ cụ, nhị nan tinh.

Cùng thê miện vu trung thiên, cực ngu du ư hạ nhật.

Thiên cao địa huýnh, giác vũ trụ chi vô cùng;

Hứng tận bi lai, thức doanh hư chi hữu số.

Vọng Trường An vu nhật hạ, chỉ Ngô Hội ư vân gian.

Địa thế cực nhi nam minh thâm, thiên trụ cao nhi bắc thần viễn.

Quan san nan việt, thuỳ bi thất lộ chi nhân?

Bình thuỷ tương phùng, tận thị tha hương chi khách.

Hoài đế hôn nhi bất kiến, phụng Tuyên thất dĩ hà niên?


Ta hồ!

Thời vận bất tế, mệnh đồ đa suyễn.

Phùng Đường dị lão, Lý Quảng nan phong.

Khuất Giả Nghị vu Trường Sa, phi vô thánh chủ;

Thoán Lương Hồng vu Hải Khúc, khởi phạp minh thời.

Sở lại quân tử an bần, đạt nhân tri mệnh.

Lão đương ích tráng, ninh tri bạch thủ chi tâm?

Cùng thả ích kiên, bất truỵ thanh vân chi chí.

Chước Tham tuyền nhi giác sảng, xử hạc triệt dĩ do hoan.

Bắc hải tuy xa, phù dao khả tiếp;

Đông ngung dĩ thệ, tang du phi vãn.

Mạnh Thường cao khiết, không hoài báo quốc chi tâm;

Nguyễn Tịch xướng cuồng, khởi hiệu cùng đồ chi khốc!


Bột tam xích vi mệnh, nhất giới thư sinh.

Vô lộ thỉnh anh, đẳng Chung Quân chi nhược quán;

Hữu hoài đầu bút, mộ Tông Xác chi trường phong.

Xả trâm hốt ư bách linh, phụng thần hôn ư vạn lý.

Phi Tạ gia chi bảo thụ, tiếp Mạnh thị chi phương lân.

Tha nhật xu đình, thao bồi Lý đối;

Kim thần phủng duệ, hỉ thác Long môn.

Dương Ý bất phùng, phủ Lăng vân nhi tự tích;

Chung Kỳ ký ngộ, tấu lưu thuỷ dĩ hà tàm?


Ô hô!

Thắng địa bất thường, thịnh diên nan tái.

Lan Đình dĩ hĩ, Tử Trạch khâu khư.

Lâm biệt tặng ngôn, hạnh thừa ân ư vĩ tiễn;

Đăng cao tác phú, thị sở vọng ư quần công.

Cảm kiệt bỉ thành, cung sơ đoản dẫn.

Nhất ngôn quân phú, tứ vận câu thành.

Thỉnh sái Phan giang, các khuynh lục hải vân nhĩ.


Đằng Vương cao các lâm giang chử,

Bội ngọc minh loan bãi ca vũ.

Hoạ đống triêu phi Nam Phố vân,

Châu liêm mộ quyển Tây Sơn vũ.

Nhàn vân đàm ảnh nhật du du,

Vật hoán tinh di kỷ độ thu.

Các trung đế tử kim hà tại?

Hạm ngoại trường giang không tự lưu.

(Đây là) quận cũ Nam Xương; phủ mới Hồng Đô.

Sao chia ngôi Dực, ngôi Chẩn; đất nối núi Hành, núi Lư.

Như cổ áo của ba sông, vòng đai của năm hồ; khuất phục đất Man Kinh, tiếp dẫn miền Âu Việt.

Vẻ rực rỡ của vật chính là đồ quý báu của trời; ánh sáng vằn rồng chiếu lên khu vực sao Đẩu sao Ngưu.

Bậc hào kiệt nơi người do khí linh tú của đất mà có; nhà cao sĩ Từ Trĩ hạ chiếc giường treo của Trần Phồn.

Chốn hùng châu như sương mù giải giăng; nguời anh tuấn như ngôi sao rong ruổi.

Đài, hào nằm gối lên giao giới vùng Di, Hạ; khách, chủ đều là những vẻ đẹp miền đông, nam.

Tiếng tăm tốt của đô đốc Diêm Bá Tự cùng với những khải kích đi đến miền xa.

Quan thái thú Vũ Văn Quân, là mô phạm của châu mới, tạm dừng xe tại chốn này.

Mười tuần nhàn rỗi, bạn tốt như mây.

Ngàn dặm đón chào, bạn hiền đầy chỗ.

Giao long vượt cao, phụng hoàng nổi dậy, đó là tài hoa của Mạnh học sĩ, ông tổ của từ chương.

Tia chớp tía, hạt sương trong, đó là tiết tháo của Vương tướng quân, nhà cai quản võ khố.

Nhân gia quân làm quan tể tại Giao Châu, tôi đi thăm miền nổi tiếng đó.

Kẻ đồng tử này đâu biết có việc chi, hân hạnh gặp buổi tiệc linh đình.


Lúc này đương là tháng chín, thuộc về ba thu.

Nước rãnh cạn, đầm lạch trong; ánh khói đọng, núi chiều tia.

Trông ngựa xe trên đường cái; hỏi phong cảnh nơi gò cao.

Đến miền Trường Châu của đế tử; tìm được quán cũ của người tiên.

Núi non cao biếc, nhô khỏi lớp mây; bóng gác bay, màu son chày, dưới không sát đất.

Bến hạc, bãi phù quanh co đến tận đảo cồn; điện quế, cung lan bày ra cái thể thế của núi non.

Mở rộng cửa tô; cúi xem cột chạm.

Đồng núi trông rộng khắp; sông đầm nhìn hãi kinh.

Cửa ngõ giăng mặt đất, đó là những nhà rung chuông, bày vạc.

Thuyền bè chật bến sông, trục vẽ chim sẻ xanh, rồng vàng.

Cầu vồng tan, cơn mưa tạnh; vẻ rực sáng, suốt đường mây.

Ráng chiều rơi xuống, cùng cái cò đơn chiếc đều bay; làn nước sông thu với bầu trời kéo dài một sắc.

Thuyền câu hát ban chiều, tiếng vang đến bến Bành Lễ.

Bầy nhạn kinh giá rét, tiếng kêu dứt bờ Hành Dương.


Khúc ngâm xa xôi sảng khoái; hứng thú phiêu dật bay nhanh.

Tiếng vui phát sinh, gió mát nổi dậy; ca nhẹ lắng chìm, mây trắng lưu lại.

Tre lục vườn Kỳ, khí lan chén rượu Bành Trạch.

Sắc đỏ sông Nghiệp, ánh soi ngọn bút Lâm Xuyên.

Sẵn bốn điều hay; đủ hai bậc tốt.

Ngắm trông khắp cả khoảng trời; vui chơi hết ngày nhàn rỗi.

Trời cao, đất xa, biết vũ trụ rộng vô cùng.

Hứng hết, buồn về, hiểu đầy vơi là có số.

Trông Trường An dưới mặt trời; trỏ Ngô Hội trong khoảng mây.

Thế đất tận cùng, biển Nam sâu thẳm; cột trời cao ngất, sao Bắc xa xôi.

Quan san khó vượt, nào ai sót thương người lạc lối ?

Bèo nước gặp nhau, hết thảy đều là khách tha hương.

Tưởng nhớ chốn cửa vua, không trông thấy được; phụng chiếu nơi Tuyên Thất, chẳng biết năm nào.


Than ôi!

Thời vận chẳng bình thường; đường đời nhiều ngang trái.

Phùng Đường dễ thành già cả; Lý Quảng khó được phong hầu.

Giả Nghị bị khuất nơi Trường Sa, chẳng phải không vua hiền thánh.

Lương Hồng phái náu miền Hải Khúc, đâu có thiếu thời quang minh.

Nhờ được: người quân tử vui cảnh nghèo; bậc đạt nhân biết rõ mệnh.

Tuổi già càng phải mạnh hơn, nên hiểu lòng ông đầu bạc.

Lúc cùng hãy nên thêm vững, không rớt chí đường mây xanh.

Uống nước suối Tham, lòng vẫn sáng; ở nơi cùng khổ, bụng còn vui.

Biển bắc tuy xa xôi, nhưng cưỡi gió có thể đi tới.

Đã để trôi qua lúc mặt trời mọc ở phương đông, nhưng khi bóng lặn khóm tang du, phải đâu đã muộn.

Mạnh Thường thanh cao, vẫn mang tấm lòng báo quốc.

Nguyễn Tịch rồ dại, há bắt chước tiếng khóc đường cùng.


Bột này là đứa nhỏ cao ba thước, một gã học trò.

Không có đường xin dải dây dài, như tuổi niên thiếu của Chung Quân.

Nhưng có hoài bão vứt cây bút, yêu mến cơn gió dài của Tông Xác.

Bỏ rơi trâm hốt ở trăm năm; theo việc thần hôn ngoài vạn dặm.

Tuy không phải là cây báu nhà họ Tạ; nhưng được ở gần hàng xóm tốt của họ Mạnh.

Ngày sau, tôi sẽ rảo bước trước sân, lạm phụ thêm lời đối đáp của ông Lý.

Sớm nay, nâng tay áo, vui mừng được gửi gắm họ tên tại cổng rồng.

Không còn được gặp Dương Ý, nên đọc thiên lăng vân mà tự tiếc.

Nhưng đã gặp Chung Kỳ, thì tấu khúc lưu thuỷ có hổ thẹn gì.


Than ôi!

Chốn danh thắng chẳng thường tồn tại; bữa tiệc lớn khó gặp hai lần.

Lan Đình còn đâu nữa, Tử Trạch thành gò hoang.

Hân hạnh được thừa ân Diêm công trong bữa tiệc vĩ đại này, tôi viết lời tặng khi lâm biệt.

Còn như lên cao làm phú, đó là việc mong mỏi nơi các ông.

Xin dốc lòng thành quê kệch; cung kính làm bài tự ngắn.

Trước ngỏ một lời, sau bày tình ý; đồng thời bốn vận đều xong.

Mời rảy nước sông Phan, cùng làm cho nghiêng mây trong đất liền lẫn mây ngoài biển vậy.


Bên sông, đây gác Đằng Vương.

Múa ca đã tắt, ngọc vàng nào ai ?

Cột rồng Nam Phố mây bay.

Rèm châu mưa cuốn ngàn Tây, sớm chiều.

In đầm, mây vẩn vơ trôi.

Tang thương vật đổi, sao dời mấy thâu.

Đằng vương trong gác giờ đâu ?

Trường Giang nước vẫn chảy mau mé ngoài.


Nguồn: Hán văn - Trần Trọng San