Quan San Nguyệt

關山月 / Quan San Nguyệt  - Lý Bạch

Bản dịch thơ của Vương Thanh, Tản Đà

明月出天山,

蒼茫雲海間。

長風幾萬里,

吹度玉門關。

漢下白登道,

胡窺青海灣。

由來征戰地,

不見有人還。

戍客望邊色,

思歸多苦顏。

高樓當此夜,

嘆息未應閒。

Phiên Âm Hán Việt:


Minh nguyệt xuất Thiên San

Thương mang vân hải gian

Trường phong kỷ vạn lý

Xuy độ Ngọc Môn quan.

Hán há Bạch Đăng đạo

Hồ khuy Thanh Hải loan.

Do lai chinh chiến địa

Bất kiến hữu nhân hoàn.

Thú khách vọng biên sắc

Tư quy đa khổ nhan.

Cao lâu đương thử dạ

Thán tức vị ưng nhàn.


Bản dịch nghĩa:


Trăng sáng mọc trên núi Thiên San

Trong cảnh mênh mông giữa mây và biển

Gió bay mấy ngàn dặm về

Thổi đến cửa ải Ngọc Môn

Nhà Hán đồn binh ở lộ Bạch Đăng

Rợ Hồ ngấp nghé ở vũng Thanh Hải

Xưa nay vẫn là bãi chiến trường

Không thấy có ai được trở về

Người lính thú nhìn đăm đăm cảnh sắc xa xa

Lòng nhớ nhà gương mặt lộ vẻ buồn khổ

Đêm nay có ai đang ngồi trên lầu cao

Hẳn phải than thở mà không dám nhàn nhã


(Năm 741)


Bản dịch của Tản Đà


Vừng trăng ra núi Thiên San,

Mênh mang nước bể mây ngàn sáng soi.

Gió đâu muôn dặm chạy dài,

Thổi đưa trăng sáng ra ngoài Ngọc Môn.

Bạch Đăng quân Hán đóng đồn,

Vùng kia Thanh Hải dòm luôn mắt Hồ.

Từ xưa bao kẻ chinh phu,

Đã ra đất chiến, về ru mấy người ?

Buồn trông cảnh sắc bên trời,

Giục lòng khách thú nhớ nơi quê nhà.

Lầu cao, đêm vắng, ai mà,

Đêm nay than thở ắt là chưa nguôi.


Bản dịch của Vương Thanh


Vừng trăng ló dạng núi Thiên San

Biển biếc, trời mây đẹp ánh vàng

Vạn dặm đường dài, tung cánh gió

Thổi đưa trăng đến Ngọc Môn quan


Bạch Đăng, quân Hán dựng binh đồn

Thanh Hải, rợ Hồ mãi dòm trông

Chiến địa xưa nay, đâu mấy kẻ

Còn sống trở về nơi cố thôn


Buồn trông cảnh sắc chốn xa xa 

Mặt mày sầu khổ vọng quê nhà

Đêm nay, ở chỗ lầu cao đó

Có người than thở, nhớ tình xa…