Vô Tục Niệm - Khâu Xứ Cơ

Khâu Xứ Cơ 丘處機 (1148-1227) tự Thông Mật 通密, là đạo sĩ Toàn Chân giáo cuối Kim đầu Nguyên với đạo hiệu Trường Xuân Tử 長春子, người Thê Hà, Đăng Châu (nay là tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc). Năm 18 tuổi, ông bắt đầu học đạo, bái tổ sư Toàn Chân giáo là Vương Trùng Dương 王重陽 làm thầy. Tên Xứ Cơ của ông là do Vương Trùng Dương đặt cho. Cùng học đạo với ông còn có Đan Dương Tử Mã Ngọc, Trường Chân Tử Đàm Xứ Đoan, Trường Sinh Tử Lưu Xứ Huyền, Ngọc Dương Tử Vương Xứ Nhất, Quảng Ninh Tử Hách Đại Thông và Thanh Tịnh tản nhân Tôn Bất Nhị, được người đời gọi là Toàn Chân thất tử. Năm 1203, chưởng giáo Lưu Xứ Huyền qua đời, Khâu Xứ Cơ trở thành chưởng giáo đời thứ năm của Toàn Chân giáo.


Tháng 5 năm 1219, Thành Cát Tư Hãn phái sứ giả Lưu Trọng Lộc đến mời Khâu Xứ Cơ, ông nhận lời và đến tháng 1 năm 1220 dẫn theo 18 đệ tử lên đường. Tháng 4 năm 1222, Khâu Xứ Cơ diện kiến Thành Cát Tư Hãn. Thành Cát Tư Hãn hết sức vui mừng, gọi ông là Thần tiên. Khâu Xứ Cơ ra sức khuyên Thành Cát Tư Hãn lấy nhân nghĩa trị quốc, không nên giết quá nhiều người khi tiến hành chinh phạt. Thành Cát Tư Hãn sai người ghi chép lại mọi lời giảng của ông để răn dạy con cháu. Mùa xuân năm 1223, Khâu Xứ Cơ từ biệt Thành Cát Tư Hãn, quay trở về Tuyên Đức và kết thúc chuyến tây du. Chuyến đi này được đệ tử Lý Chí Thường ghi chép thành tác phẩm Trường Xuân chân nhân tây du ký rất nổi tiếng. Năm 1227, Khâu Xứ Cơ mất, chức chưởng giáo được truyền lại cho đệ tử Doãn Chí Bình. Năm 1309, Nguyên Vũ Tông phong cho ông danh hiệu Trường Xuân Toàn Đức Hoá Minh Ứng Chân Quân.  (Nguồn: thivien.net)

Vô Tục Niệm - Khâu Xứ Cơ

trích Ỷ Thiên Đồ Long Ký - Kim Dung




Xuân du hạo đãng, thị niên niên hàn thực, lê hoa thời tiết.

Bạch cẩm vô văn hương lạn mạn, ngọc thụ quỳnh bao đôi tuyết.

Tĩnh dạ trầm trầm, phù quang ái ái, lãnh mạn dung dung nguyệt.

Nhân gian thiên thượng, lạn ngân hà chiếu thông triệt.

Hồn tự cô xạ chân nhân, thiên tư linh tú, ý khí thù cao khiết.

Vạn nhị sâm sai thùy tín đạo, bất dữ quần phương đồng liệt.

Hạo khí thanh anh, tiên tài trác lạc, hạ thổ nan phân biệt.

Dao đài qui khứ, động thiên phương khán thanh tuyệt.


Tiết trời lạnh hoa lê đang rộ,

Khách nhàn du lãng đãng chơi xuân.

Hương thơm bay tỏa không gian,

Cành cây trắng xóa lộc non nở đầy.

Ánh trăng lạnh canh khuya thanh tĩnh,

Chiếu trên cao thấp thoáng sông ngân.

Tâm tình một vẻ miên man,

Trời cho tính khí cao sang vẻ người.

Chen lẫn vẻ muôn hoa rực rỡ,

Vẻ thanh cao vẫn tự vươn cao.

Thanh anh trác lạc hơn người,

Dẫu trong ngọc đá có chiều nọ kia.

Dao đài ai kẻ đi về,

Hương trời đôi lứa đã kề bên nhau.


Bài từ tuy nói về hoa lê, nhưng thật ra chính là để ca tụng một thiếu nữ xinh đẹp mặc áo trắng, coi nàng "thực không phải người phàm, thiên tư linh tú, khí độ cao khiết", lại nói nàng "hạo khí thanh anh, tiên tài trác lạc", "bất dĩ quần phương đồng liệt" (không giống như những người khác). Người con gái đẹp mô tả trong bài từ này, chính là truyền nhân của phái Cổ Mộ, Tiểu Long Nữ. Nàng vốn ưa mặc đồ trắng, chẳng khác gì gió thổi qua cây ngọc, đóa quỳnh nở trong tuyết, chỉ hiềm tính khí lạnh lùng, nên mới tả hình dung là "lãnh mạn dung dung nguyệt". Khưu Xứ Cơ tặng nàng ba chữ "Vô Tục Niệm" thật mười phần xác đáng.

Trường Xuân Tử Khưu Xứ Cơ ở ngay bên cạnh nàng tại Chung Nam Sơn, một lần gặp mặt nên viết ra bài từ này. Lúc bấy giờ Khưu Xứ Cơ tạ thế đã lâu, Tiểu Long Nữ cũng đã làm vợ Thần Điêu đại hiệp Dương Quá.

- Trích: Ỷ Thiên Đồ Long Ký.

Vương Trùng Dương và Toàn Chân Thất Tử