Trác Văn Quân




Trác Văn Quân 卓文君 là tài nữ người Lâm Cùng đời Tây Hán (nay thuộc Cùng Lai, Tứ Xuyên), giỏi đàn, thiện âm luật. Nàng xuất thân phú quý, là con của đại phú thương thời đó là Trác Vương Tôn 卓王孫, lấy chồng nhưng sớm thành quả phụ. Tư Mã Tương Như 司馬相如 đến uống rượu nhà họ Trác, biết trong nhà có quả phụ trẻ, gảy khúc Phượng cầu hoàng do chàng sáng tác. Văn Quân nửa đêm bỏ nhà theo Tương Như, hai người tới Thành Đô sống một thời gian nhưng nhà nghèo nên lại trở về Lâm Cùng, mở quán bán rượu.  (thivien.net)

Bạch Đầu Ngâm - Trác Văn Quân

bản dịch thơ của Điệp Luyến Hoa

Ngai như sơn thượng tuyết,

Kiểu nhược vân gian nguyệt.

Văn quân hữu lưỡng ý,

Cố lai tương quyết tuyệt.

Kim nhật đấu tửu hội,

Minh đán câu thuỷ đầu.

Tiệp điệp ngự câu thượng,

Câu thuỷ đông tây lưu.


Thê thê phục thê thê,

Giá thú bất tu đề.

Nguyện đắc nhất tâm nhân,

Bạch đầu bất tương ly.

Trúc can hà niệu niệu,

Ngư vĩ hà si si.

Nam nhi trọng ý khí,

Hà dụng tiền đao vi.

Trắng như tuyết trên núi,

Sáng tựa trăng giữa mây.

Nghe lòng chàng hai ý,

Thiếp đành đoạn tình này.

Hôm nay chén sum họp,

Đầu sông tiễn sớm mai.

Lững thững theo dòng nước,

Nước mãi chảy đông tây.


Buồn đau lại buồn đau,

Vợ chồng chẳng nên than.

Mong người lòng chỉ một,

Bạc đầu chẳng xa nhau.

Chiếc cần sao lay động,

Đuôi cá sao cong cong.

Nam nhi trọng ý khí,

Sao tiền bạc thay lòng.

Oán Lang Thi - Trác Văn Quân

bản dịch thơ của ai, không rõ

Nhất biệt chi hậu,

Nhị địa tương huyền,

Tuy thuyết thị tam tứ nguyệt,

Thuỳ hựu tri ngũ lục niên,

Thất huyền cầm, vô tâm đàn,

Bát hành thư, vô khả truyền,

Cửu liên hoàn tòng trung chiết đoạn,

Thập lý trường đình vọng nhãn dục xuyên,

Bách ty tưởng,

Thiên hệ niệm,

Vạn bàn vô nại bả lang oán.


Vạn ngữ thiên ngôn đạo bất hoàn,

Bách vô liêu lại thập y lan,

Trùng cửu đăng cao khán cô nhạn,

Bát nguyệt trung thu nguyệt viên nhân bất viên,

Thất nguyệt bán, bỉnh chúc thiêu hương vấn thương thiên,

Lục nguyệt phục thiên nhân nhân dao phiến ngã tâm hàn,

Ngũ nguyệt thạch lựu như hoả, thiên ngộ trận trận lãnh vũ kiêu hoa đoan,

Tứ nguyệt tỳ bà vị hoàng, ngã dục đối kính tâm ý loạn, cấp thông thông,

Tam nguyệt đào hoa tuỳ thuỷ chuyển, phiêu linh linh,

Nhị nguyệt phong tranh tuyến nhi đoạn,


Y, lang nha lang,

Ba bất đắc hạ nhất thế,

Nhĩ vy nữ lai ngã vy nam.

Sau khi một biệt,

Lòng gởi hai nơi,

Chỉ hẹn rằng ba bốn tháng,

Nào ngờ lại năm sáu năm,

Bảy dây trống trải đàn cầm,

Tám hàng thư không thể gởi,

Chín mối bội hoàn dang dở,

Mười dặm trường đình mỏi mắt ngóng trông,

Trăm tương tư,

Ngàn dằn vặt,

Muôn chung nào nỡ oán chàng.


Vạn lời ngàn tiếng nói sao đang,

Trăm cô liêu tựa mười hiên vắng,

Mùng chín tháng chín lên cao trông lẻ nhạn,

Tháng tám trung thu tròn trăng chẳng thấy người,

Tháng bảy nửa vầng hương cầm đuốc hỏi ông trời,

Tháng sáu phục hiên ai ai lay quạt lạnh lòng ai,

Tháng năm lửa lựu lập loè sầm sập mưa dầm hoa tả tơi,

Tháng tư tỳ bà lạnh vắng người toan soi gương tâm ý loạn,

Chợt hối hả tháng ba hoa đào theo nước trôi,

Tháng hai gió gảy tiếng rã rời.



Ôi! chàng, chàng ơi,

Nguyện cho được sau một kiếp,

Chàng hoá gái để em làm trai.


Tương truyền Tư Mã Tương Như sau khi làm bài Trường Môn phú nói lên nỗi lòng A Kiều, giúp nàng lấy lại được sủng ái của quân vương thì chàng cũng trở thành người trong mộng của bao nhiêu tiểu thư mệnh phụ chốn kinh thành, chàng quên mất Trác Văn Quân tài hoa đa tình đang mỏi mắt chờ chàng ở chốn Thành Đô. Rồi một hôm nàng đang ngồi tựa cửa, chợt có người dâng đến một phong thư của chàng, mở bức lụa trắng tinh mà lòng những xốn xang. Nào ngờ trên mảnh lụa chỉ vỏn vẹn vài chữ “Một hai ba bốn năm sáu bảy tám chín mười trăm ngàn vạn”. Thưa thớt như bước chân người trở về, lạt lẽo như lòng kẻ phụ phàng. Người đưa thư còn bảo chàng dặn lấy hồi âm ngay. Tâm cuồng ý loạn, vừa hận vừa đau nàng cầm bút đề luôn một mạch bài thơ này. Tư Mã Tương Như nhận thư giật mình, chiều hôm ấy xe ngựa cao quý nhằm hướng Thành Đô mà trở về.