Đào Uyên Minh
Đào Tiềm 陶潛 (365-427) người đất Tầm Dương đời Tấn, tự Uyên Minh 淵明. Có sách nói ông vào đời Tấn, tên là Uyên Minh 淵明, tự Nguyên Lượng 元亮, đến đời Tống (Nam Bắc triều) đổi tên thành Tiềm 潛. Ông tự hiệu Ngũ liễu tiên sinh 五柳先生. Khi làm quan lệnh tại Bành Trạch, phải đứng đón chào viên đốc bưu do quận thú phái đến, Đào Tiềm than rằng “Ta tại sao lại vì năm đấu gạo mà chịu gãy lưng?”, bèn trả ấn, từ quan.
lai khứ quy từ - đào tiềm
Bài từ về việc trở về
Bản dịch nghĩa
Quy khứ lai hề, điền viên tương vu, hồ bất quy!
Ký tự dĩ tâm vi hình dịch, hề trù trướng nhi độc bi?
Ngộ dĩ vãng chi bất gián, tri lai giả khả truy.
Thực mê đồ kỳ vị viễn, giác kim thị nhi tạc phi.
Chu dao dao dĩ khinh dương, phong phiêu phiêu nhi xuy y.
Vấn chinh phu dĩ tiền lộ, hận thần quang chi hy vi.
Về đi thôi! Ruộng vườn sắp trở thành hoang vu, cớ sao chưa về?
Đã để tâm hồn cho thể xác sai khiến thì sao còn ảo não, buồn khổ một mình mà làm chi?
Ta đã hiểu rõ rồi, những việc đã qua không thể sửa chữa được, nhưng những việc sau này còn có thể đổi thay,
Bởi vì ta chưa đi sâu vào con đường lầm lạc, ta thấy rõ ngày hôm nay ta đúng mà ngày hôm qua là sai.
Thuyền nhè nhẹ lướt đi, gió mát thổi bay tà áo.
Hỏi thăm khách qua đường, con đường phía trước, giận thay, ánh mặt trời buổi mai lờ mờ không rõ.
Nãi chiêm hành vũ, tái hân tái bôn.
Đồng bộc hoan nghinh, trĩ tử hậu môn.
Tam kính tựu hoang, tùng cúc do tồn.
Huề ấu nhập thất, hữu tửu doanh tôn.
Dẫn hồ trường dĩ tự chước, miện đình kha dĩ di nhan.
Ỷ nam song dĩ ký ngạo, thẩm dung tất chi dị an.
Viên nhật thiệp dĩ thành thú, môn tuy thiết nhi thường quan.
Sách phù lão dĩ lưu khế, thời kiểu thủ nhi du quan.
Vân vô tâm dĩ xuất tụ, điểu quyện phi nhi tri hoàn.
Cảnh ế ế dĩ tương nhập, phủ cô tùng nhi bàn hoàn.
Nhìn thấy nhà, lòng vui sướng quá, ta rảo bước đi nhanh.
Đầy tớ chạy ra đón ta, con thơ chờ ta ở cổng.
Cỏ hoang phủ lấp đường đi trong vườn, nhưng cây tùng cây cúc vẫn như xưa.
Dắt con vào nhà, có sẵn rượu đầy vò.
Ta cầm bình rượu tự rót cho ta, trông cành lá tươi tốt trước sân mà lòng vui vô hạn.
Ngồi dựa vào cửa sổ phía nam, mà ký thác tâm tình phóng khoáng, mới biết nơi nhỏ hẹp này đủ để duỗi chân, cũng đủ sống an nhàn.
Ngày ngày đi bách bộ trong vườn, thích thú biết bao, tuy có cửa ngõ, nhưng lúc nào ta cũng đóng kín.
Ta chống gậy đi mãi, lâu lâu lại ngửng lên nhìn về phía xa.
Đám mây tự nhiên bay ra khỏi núi, chim bay mỏi cánh thì nhớ bay về.
Mặt trời sắp khuất sau rặng núi, nhưng ta vẫn đứng mân mê cây tùng lẻ loi, thơ thẩn đấy mãi.
Quy khứ lai hề, thỉnh tức giao dĩ tuyệt du.
Thế dữ ngã nhi tương vi, phục giá ngôn hề yên cầu?
Duyệt thân thích chi tình thoại, lạc cầm thư dĩ tiêu ưu.
Nông nhân cáo dư dĩ xuân cập, tương hữu sự ư tây trù.
Hoặc mệnh cân xa, hoặc trạo cô chu.
Ký yểu điệu dĩ tầm hác, diệc khi khu nhi kinh khâu.
Mộc hân hân dĩ hướng vinh, tuyền quyên quyên nhi thuỷ lưu.
Tiện vạn vật chi đắc thời, cảm ngô sinh chi hành hưu.
Về đi thôi! Từ đây không giao du với ai nữa,
Ta với đời không còn liên quan gì với nhau nữa. Giao du để làm gì?
Ta vui sướng lắng nghe những lời tình tứ của người thân, ta vui với đèn sách để giải mối ưu phiền trong lòng ta.
Nhà nông cho ta biết ngày xuân đã đến, phải cày cấy đám ruộng phía tây.
Có lúc ta ngồi trên chiếc xe che mui, có lúc ta chèo, con thuyền nhỏ.
Ta cho thuyền đi vào sâu tìm nguồn suối, hay là đánh xe lên các đống gò.
Cỏ cây xanh tốt, suối chảy không ngừng.
Ta càng thèm muốn thấy vạn vật gặp thời, và càng cảm thương cho việc xuất xứ của ta.
Dĩ hĩ hồ!
Ngụ hình vũ nội phục kỷ thời, hạt bất uỷ tâm nhiệm khứ lưu?
Hồ vi hoàng hoàng, dục hà chi?
Phú quý phi ngô nguyện, đế hương bất khả kỳ.
Hoài lương thần dĩ cô vãng, hoặc thực trượng nhi vân tỷ.
Đăng đông cao dĩ thư khiếu, lâm thanh lưu nhi phú thi.
Liêu thừa hoá dĩ quy tận, lạc phù thiên mệnh phục hề nghi?
Nhưng thôi!
Tấm thân gửi trên cõi đời này, hỏi còn được mấy lúc.
Sao không để mặc cho nó trôi đi, còn hoảng hốt muốn đi đâu nữa?
Giàu sang vốn không phải sở nguyện của ta, mà cảnh tiên thì ta không có cách gì đi tới.
Nay gặp thời tiết đẹp, một mình ta dạo chơi, hoặc cầm gậy bới cỏ hoang.
Tới bờ ruộng hoang ta ngâm nga, lội dòng suối, ta làm thơ, mặc vạn vật biến hoá cho đến lúc tận cùng.
Vui đạo trời, biết mệnh người, còn có điều gì nghi hoặc nữa.